Họ cá mú

Họ cá mú hay cá song, Groupers, Serranidae.

Nếu bạn muốn biết 3 điều về họ cá này thì:

– Chúng là cá săn mồi đơn độc với miệng rộng rất đáng ngạc nhiên

– Chúng có thể thay đổi giới tính

– Chúng là một trong những loài cá được ưa thích. Tuy nhiên việc đánh cá quá mức đã ảnh hưởng đến số lượng loài cá này.

Thấy ở đâu? Rất nhiều loài cá mú có mặt ở nhiều nơi trên bờ biển dài của nước ta. Cá mú nhỏ thường sống ở những vùng cữa sông nhiều cát, bùn và trong các vùng rừng ngập mặn. Cá lớn thường thấy ở các rạn và là loài săn mồi đơn độc.

Cá mú là gì? Chúng thuộc họ cá mú hay họ cá song Serranidae. Theo Fishbase, họ này có 62 chi và 449 loài. Chúng sống ở các vùng nước nhiệt đới và ôn đới, một số đi vào vùng nước ngọt. Kích thước của chúng khi thành thục có thể dài chừng vài cm tới loài có kích thước lên đến 3 mét.

Đặc điểm: Cá mú có nhiều màu sắc, hình dạng và mẫu màu khác nhau. Nói chung chúng có miệng rất lớn. Cá mú được xếp trong số những động vật biển săn mồi hàng đầu trong các vùng nước cạn, yên tĩnh. Chúng săn mồi một mình, hoặc là lẻn đến con mồi hoặc nằm phục kích. Chúng chụp con mồi bằng cách bất thình lình mở miệng khổng lồ của chúng. Cá mú có hàm răng sắc nhọn. Những răng này chỉ giữ chặt chứ không giết chết con mồi, vì thế con mồi thường bị nuốt sống. Loài cá False Scorpion trông có hình dạng và hành động giống như nhưng thực sự là một loài cá mú.

Cá mú nhỏ: các loài trong họ cá mú có thể chuyển đổi giới tính của chúng. Đa số là cá cái khi chúng tiến đến giai đoạn trưởng thành. Khi lớn hơn, một số chúng có thể chuyển thành con đực. Một số cá mú tập trung thành những đàn lớn tại một nơi đặc biệt để đẻ. Vị trí tụ tập như vậy thường là phần của rạn san hô có dòng nước chảy mạnh, những dòng nước này sẽ cuốn đi những trứng đã được cung cấp các chất dinh dưỡng ra ngoài khơi xa, phát triển tránh xa nhưng loài cá săn mồi bằng phương pháp lọc nước.

Dùng làm thực phẩm: thịt cá là mặt hàng thủy sản có giá trị rất cao, đặc biệt là ở Á Châu. Tuy nhiên chúng ta có khả năng ăn loài cá này đến mức tuyệt chủng.

Cá mú rất dễ bị tổn thương với việc đánh bắt quá mức vì số lượng ban đầu của chúng không lớn. Trong khi đó, chúng là loài cá có giá trị thương mại cao và dễ bị đánh bắt. Nhiều loài có đặc tính lãnh thổ và chỉ sống trong một vùng nhất định, đa số không sợ hãi những người lặn biển. Ở Hong kong, số lượng các loài cá mú lớn đã suy giảm và hiện nay đến lượt các loài nhỏ hơn là mục tiêu đánh bắt.

Nuôi cá mú ở Vũng Rô, Phú yên

Là loài cá săn mồi hàng đầu, cá mú không bình thường về mặt tự nhiên. Chúng đạt đến độ thành thục và kích thước cực đại rất chậm. Vì thế, việc khai thác quá mức cá con trước khi chúng có thể sinh sản có ảnh hưởng nghiêm trọng. Cá đực lớn hơn và hiếm hơn, vì thế rất dễ bị tổn thương. Điều này gây ra việc thiếu cân bằng về giới tính, ảnh hưởng đến sinh sản của loài. Đánh cá tại nơi sinh sản khi một số lượng lớn những con cá đơn độc tập trung cũng có thể hủy hoại số lượng cục bộ của loài cá này.

Ở Đông Nam Á, cá mú được nuôi trong các lồng nổi, ao hoặc thùng lớn. Ở Singapore, một số loài như cá mú orange – spotted grouper và malabar grouper được nuôi trong các lồng nổi ngoài biển cho đến khi chúng đạt đến kích thước thương mại. Tuy nhiên, việc nuôi này chỉ là thu thập cá con tự nhiên để nuôi lớn, không bền vững.

Có thể bạn quan tâmSea Bass là gì?
Cá mú hấp xì dầu
Cá mú Goliath
Kỷ lục câu cá thế giới: Cá mú khổng lồ
Tàu vận chuyển cá sống lớn nhất Đài Loan khởi hành chuyến biển đầu tiên

Leave a comment

  • Biển và Người

    Bienvanguoi.wordpress.com 2011-2017 All Rights Reserved

    Founder: Ha Vinh Minh, Editor-in-chief: Doan Hoa